Tabla de Contenidos
Ngữ pháp so sánh là một nhánh của ngôn ngữ học nghiên cứu mối quan hệ giữa hai hay nhiều ngôn ngữ có chung một tổ tiên. Do đó, nó chịu trách nhiệm phân tích và so sánh các cấu trúc và yếu tố ngữ pháp của các ngôn ngữ nói trên.
Ngữ pháp so sánh: nguồn gốc và định nghĩa
Nguồn gốc của ngữ pháp so sánh
Ngữ pháp so sánh bắt nguồn từ cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19, khi châu Âu bắt đầu quan tâm sâu sắc đến việc nghiên cứu các ngôn ngữ Ấn-Âu và mối quan hệ của chúng với các ngôn ngữ châu Âu.
Năm 1786, nhà ngữ văn học người Anh William Jones (1746-1794) đã đề cập đến mối quan hệ giữa tiếng Phạn, tiếng Hy Lạp, tiếng Latinh, tiếng Celtic, tiếng Ba Tư và tiếng Gothic, một ngôn ngữ Đức, trong Diễn văn kỷ niệm lần thứ ba của ông trước Hiệp hội Châu Á ở Calcutta . Kể từ thời điểm đó, nhiều nghiên cứu hơn về tiếng Phạn và các ngôn ngữ Ấn-Âu khác đã bắt đầu.
Là kết quả của những so sánh đầu tiên giữa các ngôn ngữ, cái mà chúng ta gọi là ngữ pháp so sánh đã nảy sinh một cách tự nhiên. Chủ yếu, các nhà ngôn ngữ học Rasmus Rask và Franz Bopp được coi là những người sáng lập ngữ pháp so sánh.
Đóng góp của Rask và Bopp
Nhà ngôn ngữ học người Đan Mạch Rasmus Rask (1787-1832) nổi bật là một trong những người đầu tiên có những đóng góp cho ngữ pháp so sánh. Rask đã cống hiến hết mình để nghiên cứu tiếng Đan Mạch, tiếng Latinh, tiếng Hy Lạp, tiếng Pháp, tiếng Đức, tiếng Đức và tiếng Ba Tư, đồng thời đưa ra nhiều so sánh khác nhau giữa các ngôn ngữ này. Đóng góp của ông về sự đột biến giữa ngôn ngữ Ấn-Âu và tiếng Đức là sự khởi đầu của một lý thuyết mà sau này trở thành Định luật Grimm .
Franz Bopp (1791-1867) là một nhà ngôn ngữ học người Đức chuyên nghiên cứu về tiếng Phạn và mối liên hệ của nó với các ngôn ngữ khác. Các nhà ngôn ngữ học khác trước đó đã ghi nhận sự giống nhau giữa tiếng Phạn và tiếng Ba Tư, tiếng Hy Lạp, tiếng Latinh và tiếng Đức. Một trong số họ là nhà ngôn ngữ học Thụy Sĩ nổi tiếng Ferdinand de Saussure (1857-1913), người đã đoán rằng tiếng Ấn-Âu chứa một số phụ âm không tồn tại trong các ngôn ngữ ngoài Ấn-Âu khác.
Tuy nhiên, Bopp tập trung vào nguồn gốc hình thức ngữ pháp của những ngôn ngữ này, điều mà trước đó chưa ai làm được. Sau đó, vào năm 1816, ông đã công bố kết quả điều tra của mình trong cuốn sách Về hệ thống chia động từ tiếng Phạn so với tiếng Hy Lạp, tiếng Latinh, tiếng Ba Tư và tiếng Đức , tạo ra ngữ pháp so sánh.
Năm 1821, ông được bổ nhiệm làm giáo sư tiếng Phạn và ngữ pháp so sánh tại Đại học Berlin. Nhiều năm sau, ông xuất bản cuốn sách Ngữ pháp so sánh với mục đích điều tra và mô tả nguồn gốc của các cấu trúc ngữ pháp bằng cách so sánh các ngôn ngữ khác nhau, cũng như truy tìm quy luật ngữ âm của chúng. Bopp cũng là một trong những tác giả quan trọng nhất mô tả nền tảng của ngữ pháp Ấn-Âu.
Đóng góp khác
Các nhà ngôn ngữ học Đức khác cũng có những đóng góp cho ngữ pháp so sánh và ngôn ngữ học lịch sử. Friedrich Schlegel (1772-1829) đã thực hiện một trong những phân loại đầu tiên về các loại ngôn ngữ; Jacob Grimm (1785-1863) đã xác định các biến thể ngữ âm của phụ âm Ấn-Âu và tiếng Đức; và August Schleicher (1821-1868) đã tạo ra một hệ thống phân loại ngôn ngữ tương tự như cây gia phả.
Khái niệm và đối tượng nghiên cứu của ngữ pháp so sánh
Ngữ pháp là một phần của ngôn ngữ học chịu trách nhiệm nghiên cứu các yếu tố của ngôn ngữ, tổ chức của nó và các đặc điểm khác, đồng thời thiết lập mối quan hệ giữa hai hoặc nhiều ngôn ngữ.
Ngữ pháp so sánh là một môn học nghiên cứu các yếu tố của nhiều ngôn ngữ để so sánh giữa chúng. Nó không chỉ phân tích những điểm giống và khác nhau của chúng mà còn xác định mối quan hệ tồn tại giữa chúng bằng cách so sánh các thành phần, ngữ âm và ý nghĩa của chúng.
Ngữ pháp so sánh có thể được định nghĩa là một ngữ pháp mô tả và lịch đại, nghĩa là nó kiểm tra và mô tả các yếu tố cấu thành ngôn ngữ và quan sát những thay đổi và tiến hóa của chúng theo thời gian. Tương tự như vậy, đối tượng nghiên cứu của nó tập trung vào nguồn gốc và điều tra những thay đổi này. Tuy nhiên, không giống như ngữ pháp lịch sử, cách tiếp cận của ông dựa trên sự so sánh, không dựa trên lịch sử phát triển của một ngôn ngữ.
Nói chung, ngữ pháp so sánh thiết lập các so sánh giữa hai hoặc nhiều ngôn ngữ có chung một ngôn ngữ. Đó là, một tổ tiên mà họ bắt nguồn. Nhưng để thực hiện sự so sánh này, ngữ pháp so sánh thực hiện một nghiên cứu toàn diện về từng ngôn ngữ.
Ngữ pháp so sánh cũng bao gồm việc nghiên cứu các nguyên tắc và cách sử dụng một ngôn ngữ, hình thái học, mô tả của nó và “các từ cùng nguồn gốc”. Trong ngôn ngữ học, cùng nguồn gốc là những thuật ngữ được coi là có nguồn gốc, nghĩa là những từ có chung một từ nguyên tương tự hoặc gần gũi.
Đối với điều này, ngữ pháp so sánh sử dụng các phương pháp nghiên cứu dựa trên sự so sánh các hệ thống âm vị học và hình thái học, cú pháp và từ vựng của hai hoặc nhiều ngôn ngữ.
Văn phạm so sánh ngày nay
Hiện tại có các khung lý thuyết khác nhau trong ngôn ngữ học hiện đại, do đó, cũng ảnh hưởng đến các nghiên cứu ngữ pháp so sánh.
Dựa trên các lý thuyết được phát triển bởi nhà ngôn ngữ học người Mỹ Noam Chomsky từ năm 1965, ngữ pháp so sánh trình bày một cách tiếp cận rộng hơn và phổ quát hơn, thừa nhận khả năng bẩm sinh của trí óc để tiếp thu một ngôn ngữ và thiết lập mối quan hệ giữa tất cả các ngôn ngữ, không chỉ những ngôn ngữ mà chúng có. tổ tiên chung.
Dựa trên các mô hình cú pháp mà Chomsky đã xuất bản trong các tác phẩm của mình Cấu trúc cú pháp , Lý thuyết chuẩn và Lý thuyết chuẩn mở rộng , cũng như Chương trình tối giản , ngữ pháp đương đại có một khung lý thuyết lớn hơn cho việc nghiên cứu một ngôn ngữ, từ việc tiếp thu nó đến Điều này hữu ích không chỉ để giải thích các hiện tượng ngôn ngữ mà còn để hiểu nguồn gốc của chúng và so sánh chính xác và đầy đủ hơn.
Thư mục
- RAE. Từ điển tiếng Tây Ban Nha . Rae.es. Có tại https://dle.rae.es/gram%C3%A1tico#JQukZIX
- Từ Andrés Días, R. Ngữ pháp so sánh của các ngôn ngữ Iberia. (2013). Tây ban nha. Phiên bản Trea.
- Commelerán và Gómez, F. Ngữ pháp so sánh của tiếng Castilian và tiếng Latin. (2018). Tây ban nha. Nhà xuất bản Wentworth.